1. Tên bài toán:
Khai thác, sử dụng hiệu quả các dữ liệu số phục vụ nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước về hàng hải, tăng cường cung cấp dịch vụ số cho người dân và doanh nghiệp nhằm bảo đảm an toàn và nâng cao hiệu quả vận tải hàng hải.
2. Mô tả chi tiết vấn đề, bài toán đặt ra:
a) Bối cảnh chung
- Việt Nam là một quốc gia ven biển, với vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn, có diện tích trên 01 triệu km2. Vùng biển và thềm lục địa Việt Nam chứa đựng nhiều tài nguyên và tiềm năng phong phú, thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. Bờ biển Việt Nam trải dài trên 3.260km, với nhiều cửa ngõ thông thương và gần các tuyến hàng hải quốc tế, tạo lợi thế lớn cho chiến lược phát triển kinh tế biển.
- Trong chiến lược phát triển kinh tế biển, ngành hàng hải đóng vai trò quan trọng, trong đó cảng biển là hạt nhân phát triển, là đầu mối tiếp nhận, vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu và lưu thông tới mọi miền đất nước. Vận tải biển hiện đảm nhiệm tới 90% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và một phần hàng hóa tới các vùng miền, là huyết mạch chính trong hệ thống vận chuyển, phân phối hàng hóa của nền kinh tế.
- Ưu thế của vận tải biển là số lượng lớn, quãng đường dài, chi phí thấp... Hiện nay, 80% khối lượng hàng hóa trao đổi thương mại giữa các quốc gia trên thế giới là do vận tải biển đảm nhận và ở Việt Nam cũng tương tự như vậy, tỷ lệ này theo hướng tăng dần (năm 2015 chiếm 81,8%; năm 2016 chiếm 80,1%; năm 2017 chiếm 83,3%; năm 2019 chiếm 80,1%; năm 2019 chiếm 80% và năm 2020 chiếm 78,7%).
b) Một số tồn tại
- Việt Nam là một quốc gia ven biển với bờ biển trải dài trên 3.260km, có
diện tích các vùng lãnh hải thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán
trên 01 triệu km2. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng cảng biển còn đầu tư chưa đồng bộ, thiếu cơ sở hạ tầng lớn, hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành hàng hải.
Hệ thống cảng biển được xây dựng mở rộng nhanh nhưng còn thiếu đồng bộ với hạ tầng giao thông kết nối thuận tiện. Ô nhiễm môi trường biển ở nhiều nơi còn diễn ra nghiêm trọng, ô nhiễm rác thải nhựa đã trở thành vấn đề cấp bách; các hệ sinh thái biển, đa dạng sinh học biển bị suy giảm; công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, biển xâm thực còn nhiều hạn chế, bất cập. Sản lượng hàng hóa, mật độ đội tàu vào, rời các cảng biển ngày càng gia tăng nhưng chưa song hành với phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác quản lý nhà nước chuyên ngành hàng hải tại cảng biển gây khó khăn cho công tác quản lý an ninh, an toàn tại cảng biển; phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển từ tàu; giám sát và điều phối giao thông hàng hải; ...
- Trong nhu cầu hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế của đất nước ngày càng nhanh chóng, lượng hàng hóa và hành khách thông qua cảng biển ngày càng có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên, hệ thống cảng biển, vận tải biển và dịch vụ hàng hải hiện nay còn nhiều tồn tại, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Một trong những nguyên nhân là thiếu công cụ phân tích, dự báo về hàng hóa vận chuyển, năng lực vận tải biển, khả năng cung ứng dịch vụ hàng hải, ... gây nên tình trạng ùn ứ trong quá trình vận tải hàng hóa đến các khu vực cảng biển, chưa khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của vận tải biển.
- Ứng dụng CNTT được Cục Hàng hải Việt Nam quan tâm, xác định đây
là động lực góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới, tạo điều kiện để thực hiện thắng lợi hiện đại hóa ngành hàng hải. Cho đến nay, Cục Hàng hải Việt Nam đã xây dựng, đưa vào sử dụng nhiều hệ thống thông tin (Hệ thống VTS, LRIT, AIS, ...) và các CSDL chuyên ngành phục vụ cung cấp dịch vụ công trực tuyến (như đăng ký tàu biển, quản lý thuyền viên, ...) cho người dân và doanh nghiệp và công tác quản lý nhà nước chuyên ngành hàng hải. Một trong những Hệ thống CNTT quan trọng được triển khai là Hệ thống CNTT thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia tại cảng biển phục vụ giải quyết thủ tục điện tử cho tàu thuyền vào, rời cảng biển. Tuy nhiên, các hệ thống CSDL, phần mềm ứng dụng được triển khai tại Cục Hàng hải Việt Nam mang tính cục bộ dẫn đến việc khó khăn trong trao đổi, kết nối thông tin trong toàn hệ thống, hạn chế việc khai thác thông tin chung, đặc biệt là trong công tác phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải và phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển từ tàu.
Ngoài ra, việc thiếu Hệ thống thông tin thu thập, phân tích, xử lý dữ liệu để đáp ứng các yêu cầu về: Quản lý công tác quy hoạch, lập kế hoạch bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông hàng hải; Cảnh bảo tình trạng ùn ứ trong quá trình vận tải hàng hóa đến các khu vực cảng biển; Hỗ trợ điều hành, xử lý sự cố giao thông hàng hải, tìm kiếm và cứu nạn trên biển, bảo vệ môi trường biển; dịch vụ thông tin logistic phục vụ vận tải đa phương thức; cảnh bảo sớm những bất thường của thời tiết gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước lĩnh vực hàng hải, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Các ngành kinh tế trên thế giới đang có xu hướng tiến tới mức độ tự động hóa ngày càng cao, ngành vận tải biển cũng đang thích ứng với xu hướng này bằng các công nghệ thông minh trên tàu biển, trong khai thác kết cấu hạ tầng cảng biển và trong cung cấp dịch vụ vận tải. Các công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực hàng hải, Internet vạn vật (IoT) và phân tích dữ liệu tạo các hệ thống thông tin thông minh hơn, đưa ra các quyết định quan trọng sau khi đánh giá trọng số của nhiều thông số khác nhau. IoT cho phép người dùng kết nối hàng ngày các vật thể với đám mây hoặc Internet để điều khiển các đồ vật hàng ngày chỉ bằng một nút bấm. Phân tích dữ liệu là xương sống đằng sau tất cả các công nghệ mới, nó cho phép các nhà khoa học và kỹ sư khai thác và thu thập thông tin hữu ích từ hàng triệu dữ liệu mà lẽ ra không thể phân tích được. Bằng cách kết hợp các tính năng này vào ngành hàng hải, chúng ta có thể cải thiện hiệu quả của vận tải biển, quản lý thời gian và sản lượng tốt hơn. Việc ứng dụng các công nghệ mới, đòi hỏi năng lực của hệ thống hạ tầng mạng cũng như phương thức quản lý dữ liệu, khai thác dữ liệu được thay đổi. Việc xây dựng hệ thống máy chủ, các thiết bị mạng theo hướng tập trung hóa cũng là một mục tiêu quan trọng. Việc tập trung hóa các cơ sở hạ tầng CNTT giúp cho việc quản lý dễ dàng, đầu tư mặt bằng cũng như các thiết bị phụ trợ khác được hiệu quả, triển khai các ứng dụng trên nền cơ sở hạ tầng tập trung cũng được phân bổ nguồn lực vừa đủ, linh hoạt khi triển khai, tránh lãng phí trong đầu tư mua sắm. Để hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển, cần đầu tư hệ thống công nghệ thông tin có tính nền tảng để kết nối, chia sẻ dữ liệu cho các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước tại cảng biển nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hải. Phát triển hệ sinh thái tích hợp lấy dữ liệu số làm trung tâm nhằm kết nối hoạt động vận tải biển - cảng biển - dịch vụ logistics là giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành hàng hải Việt Nam.
c) Kết luận
Để đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng CNTT, phát triển Chính phủ số vào công tác quản lý, điều hành, tác nghiệp đồng thời là một bước chuẩn bị cho các thay đổi lớn hơn về CNTT ứng dụng trong lĩnh vực hàng hải như ứng dụng chuỗi khối (BlockChain), thiết lập chuỗi cung ứng và hậu cần logistics thông minh; xây dựng hệ thống Phân tích dữ liệu suy luận từ các kho lưu trữ thông tin lớn đến từ các môi trường hoạt động lớn như các tàu và cảng biển cần có hạ tầng CNTT đủ mạnh, dữ liệu số và các công cụ phân tích dữ liệu đầy đủ để phát triển, đáp ứng tốt hơn nữa nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải trong công tác quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật chuyên ngành hàng hải trong phạm vi cả nước của Cục Hàng hải Việt Nam.